Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Thiên 1 - Chương 4 - Phẩm 2 - Bài 6: Bình bát


Thiên 1 - Chương 4 - Phẩm 2 - Bài 6Bình bát

Bài giảng


Chánh văn tiếng Việt

VI. Bình Bát (S.i,112)
1) Trú ở Sàvatthi. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về năm thủ uẩn, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tâm tư, lóng tai nghe pháp.
2) Rồi Ác ma suy nghĩ: "Sa-môn Gotama này đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về năm thủ uẩn, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, và các Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tâm tư, lắng tai nghe pháp. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và làm mờ mắt các Tỷ-kheo ấy".
3) Lúc bấy giờ có nhiều bình bát được đặt ra ngoài trời để phơi cho khô.
4) Rồi Ác ma biến hình thành con bò đực và đi đến các bình bát ấy.
5) Rồi một Tỷ-kheo nói với một Tỷ-kheo khác:
-- Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, con bò đực này sẽ làm bể các bình bát.
6) Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy:
-- Này Tỷ-kheo, nó không phải con bò đực. Nó chính là Ác ma muốn đến làm mờ mắt các ông.
7) Và Thế Tôn biết được: "Ðây là Ác ma", liền nói lên bài kệ cho Ác ma:
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
Cái ấy không phải tôi,
Cái ấy không của tôi,
Như vậy đây ly tham,
Ly tham vậy, tâm an,
Mọi kiết sử siêu thoát,
Dầu tìm mọi xứ sở,
Ma quân không gặp được.
8) Ác ma biết được: " Thế Tôn đã biết ta...", liền biến mất tại chỗ ấy.

Chánh văn Pāli

6. Pattasuttaṃ
152. Sāvatthinidānaṃ . Tena kho pana samayena bhagavā pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti [samādāpeti (?)] samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā [aṭṭhikatvā (sī. syā. kaṃ. pī.)] manasi katvā sabbacetasā [sabbacetaso (sī. syā. kaṃ. pī.), sabbaṃ cetasā (ka.)] samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti.
Atha kho mārassa pāpimato etadahosi – ‘‘ayaṃ kho samaṇo gotamo pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yaṃnūnāhaṃ yena samaṇo gotamo tenupasaṅkameyyaṃ vicakkhukammāyā’’ti.
Tena kho pana samayena sambahulā pattā abbhokāse nikkhittā honti. Atha kho māro pāpimā balībaddavaṇṇaṃ abhinimminitvā yena te pattā tenupasaṅkami. Atha kho aññataro bhikkhu aññataraṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘bhikkhu, bhikkhu, eso balībaddo patte bhindeyyā’’ti. Evaṃ vutte bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘na so, bhikkhu, balībaddo. Māro eso pāpimā tumhākaṃ vicakkhukammāya āgato’’ti. Atha kho bhagavā ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
‘‘Rūpaṃ vedayitaṃ saññā, viññāṇaṃ yañca saṅkhataṃ;
Nesohamasmi netaṃ me, evaṃ tattha virajjati.
‘‘Evaṃ virattaṃ khemattaṃ, sabbasaṃyojanātigaṃ;
Anvesaṃ sabbaṭṭhānesu, mārasenāpi nājjhagā’’ti.
Atha kho māro pāpimā…pe… tatthevantaradhāyīti.

Chú giải Pāli

6. Pattasuttavaṇṇanā
152. Chaṭṭhe pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāyāti pañca upādānakkhandhe ādiyitvā, sabhāvasāmaññalakkhaṇavasena nānappakārato vibhajitvā dassento. Sandassetīti khandhānaṃ sabhāvalakkhaṇādīni dasseti. Samādapetīti gaṇhāpeti. Samuttejetīti samādānamhi ussāhaṃ janeti. Sampahaṃsetīti paṭividdhaguṇena vodāpeti jotāpeti. Aṭṭhiṃ katvāti atthikaṃ katvā, ‘‘ayaṃ no adhigantabbo attho’’ti evaṃ sallakkhetvā tāya desanāya atthikā hutvā. Manasi katvāti citte ṭhapetvā. Sabbacetaso samannāharitvāti sabbena tena kammakārakacittena samannāharitvā. Ohitasotāti ṭhapitāsotā. Abbhokāse nikkhittāti otāpanatthāya ṭhapitā.
Rūpaṃ vedayitaṃ saññānti, ete rūpādayo tayo khandhā. Yañca saṅkhatanti iminā saṅkhārakkhandho gahito. Evaṃ tattha virajjatīti ‘‘eso ahaṃ na homi, etaṃ mayhaṃ na hotī’’ti passanto evaṃ tesu khandhesu virajjati. Khemattanti khemībhūtaṃ attabhāvaṃ. Iminā phalakkhaṇaṃ dasseti. Anvesanti bhavayonigatiṭhitisattāvāsasaṅkhātesu sabbaṭṭhānesu pariyesamānā. Nājjhagāti na passīti. Chaṭṭhaṃ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét